Nhân sự làm công tác kiểm định chất lượng được bồi dưỡng theo chương
trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo chưa phù hợp với bản mô tả việc làm và
năng lực yêu cầu đối với hai cách tiếp cận kiểm định chất lượng (kiểm
định cơ sở đào tạo và kiểm định chương trình). Tính chuyên nghiệp của
nhân sự làm công tác kiểm định chất lượng còn hạn chế. Trong lựa chọn ưu
tiên khi nguồn lực gặp hạn chế, tự chủ giáo dục đại học, mô hình quản
trị còn khác biệt so với tự chủ
của thế giới... nên dành ưu tiên kiểm định chương trình hơn là kiểm
định chất lượng cơ sở đào tạo, sẽ có ý nghĩa hơn nhiều giúp cải thiện
chất lượng chương trình.
Đặc biệt ở những ngành đào tạo đòi hỏi tính chuyên nghiệp như giáo
dục, y tế, luật, kế toán, kỹ thuật công nghệ... chưa có chính sách thành
lập các tổ chức kiểm định chuyên biệt (theo ngành - sector) như nhiều
quốc gia khác. Đặc biệt, quy định về quản lý rủi ro trong quá trình đảm
bảo chất lượng dường như chưa được đề cập ở các quy định kiểm định.
Hạn chế của cơ quan kiểm định chất lượng: Công tác
kiểm định chất lượng, trong đó đội ngũ cán bộ chuyên trách, đánh giá
viên và kiểm định viên còn thiếu; các trung tâm kiểm định chất lượng
hoạt động chưa đồng đều; việc thực hiện kiểm định chất lượng cấp chương
trình chưa được đầu tư thích đáng, tiến độ thực hiện còn chậm.
Tính độc lập của các trung tâm kiểm định chất lượng còn nhiều vấn đề
chưa được quy định rõ. Tư vấn chuẩn bị báo cáo tự đánh giá trước đánh
giá ngoài theo Thông tư 61/2012/TT-BGDĐT quy định tổ chức kiểm định chất
lượng giáo dục có chức năng: "Tư vấn cho các cơ sở giáo dục thực hiện
cải tiến chất lượng sau khi được kiểm định chất lượng giáo dục". Điều
này dấy lên lo ngại về tính minh bạch trong kiểm định chất lượng.
Hợp tác quốc tế trong kiểm định chất lượng còn chưa phát triển để
hình thành sự kiểm định lẫn nhau về kết quả kiểm định cũng như chia sẻ
kinh nghiệm. Trung tâm kiểm định chất lượng vẫn thiếu việc theo dõi,
giám sát và chịu trách nhiệm với những kết luận, khuyến cáo cải tiến
chất lượng của cơ sở giáo dục đại học được cấp chứng nhận kiểm định.
Thiếu thống nhất trong các trung tâm kiểm định về tài chính, cơ chế bất
cập dẫn đến sự cạnh tranh không lành mạnh và dẫn đến ý nghĩa, giá trị
của các chứng nhận kiểm định do mỗi trung tâm cấp không đồng đều.
Hạn chế trong công tác đảm bảo chất lượng của nhà trường: Hạn
chế lớn nhất của công tác đảm bảo chất lượng bên trong nhà trường là ý
thức của các cấp lãnh đạo quản lý và sự quan tâm đầu tư phát triển đội
ngũ nhân sự đảm bảo chất lượng. Kinh phí dành cho công tác đảm bảo chất
lượng nhà trường còn hạn chế. Chưa hình thành văn hóa chất lượng một
cách phổ biến trong nhà trường từ cán bộ quản lý đến giảng viên, sinh
viên và đội ngũ viên chức khác.
Xuất hiện ý thức đối phó, mục đích chỉ cần có giấy chứng nhận kiểm
định chất lượng làm giảm ý nghĩa của công tác kiểm định chất lượng và
đảm bảo chất lượng một cách bền vững. Nguồn lực và các điều kiện đảm bảo
chất lượng khác rất hạn chế, việc cải tiến chất lượng liên tục gặp phải
thách thức không nhỏ. Ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý chất
lượng và cơ sở dữ liệu nhìn chung chưa cung cấp hiệu quả để nhà trường
cải thiện công tác quản lý chất lượng.
Vấn đề nhân sự kiểm định chất lượng
Tiêu chuẩn tuyển chọn nhân sự tham gia đánh giá ngoài (cơ sở đào tạo
và chương trình) theo Thông tư 12/2017/TT-BGDĐT ngày 19/5/2017 quy định
kiểm định viên phải là người có tư cách, đạo đức tốt, trung thực và
khách quan; có đủ sức khỏe đảm bảo thực hiện được các nhiệm vụ được phân
công.
Về kinh nghiệm phải có thời gian giảng dạy hoặc làm công tác quản lý
giáo dục từ 10 năm trở lên hoặc có ít nhất 5 năm kinh nghiệm quản lý
(trừ thành viên của đoàn là nhà tuyển dụng thì không cần có kinh nghiệm
này).
Trưởng đoàn đánh giá ngoài là người đã hoặc đang là lãnh đạo cơ sở
giáo dục hoặc giữ các chức vụ khác tương đương hoặc cao hơn, am hiểu về
đánh giá, có kinh nghiệm triển khai các hoạt động tự đánh giá, đánh giá
ngoài, có thẻ kiểm định viên kiểm định chất lượng giáo dục. Thư ký là
người am hiểu về kiểm định chất lượng giáo dục, có thẻ kiểm định viên
kiểm định chất lượng giáo dục, có nhiệm vụ giúp Trưởng đoàn chuẩn bị và
triển khai các hoạt động đánh giá ngoài, dự thảo các văn bản của đoàn
đánh giá ngoài.
Các thành viên còn lại là chuyên gia từ các cơ sở giáo dục, cơ quan
quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo, tổ chức xã hội nghề nghiệp hoặc
nhà tuyển dụng lao động tương ứng với lĩnh vực đào tạo của cơ sở giáo
dục được đánh giá ngoài, có thẻ kiểm định viên kiểm định chất lượng giáo
dục hoặc có chứng chỉ hoàn thành chương trình đào tạo, bồi dưỡng kiểm
định viên theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Để đào tạo nguồn nhân lực triển khai hoạt động kiểm định chất lượng,
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành các văn bản quy định về kiểm định
viên kiểm định chất lượng, quy định về chương trình đào tạo kiểm định
viên kiểm định chất lượng đại học và trung cấp chuyên nghiệp.
Việt Nam có 3 cơ sở giáo dục đại học được Bộ Giáo dục và Đào tạo giao
nhiệm vụ đào tạo kiểm định viên kiểm định chất lượng là Đại học Quốc
gia Hà Nội, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh và Đại học Đà Nẵng.
Bộ Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm tuyển chọn và cấp thẻ kiểm định
viên kiểm định chất lượng.
Chương trình đào tạo kiểm định viên thời gian trước được thiết kế dựa
theo Thông tư số 18/2013/TT-BGDĐT ban hành chương trình đào tạo kiểm
định viên kiểm định chất lượng giáo dục đại học và trung cấp chuyên
nghiệp. Chương trình này có ưu điểm trong đào tạo với việc tự học có
hướng dẫn và có phần bài tập để giúp hình thành kỹ năng, không quá nặng
về lý luận.
Tuy nhiên, chương trình cho thấy một vài điểm hạn chế như không dựa
vào bản mô tả việc của kiểm định viên, yêu cầu về năng lực (kiến thức,
kỹ năng, khả năng tự chủ và trách nhiệm) để làm cơ sở xây dựng chương
trình. Cách viết mục tiêu đào tạo thiếu tường minh không tiếp cận với
kết quả kỳ vọng (expected learning outcomes) ở đầu ra mỗi module. Nội
dung kiến thức, kỹ năng trong chương trình thiếu sự gắn kết hỗ trợ hình
thành năng lực. Không phân biệt rõ trong nội dung chương trình đào
tạo kiểm định viên cơ sở đào tạo và kiểm định viên chương trình đào tạo
trong khi năng lực yêu cầu của kiểm định viên kiểm định cơ sở đào tạo và
kiểm định chương trình khá khác nhau. Vì thế việc đánh giá, đưa ra
nhận xét cũng như những khuyến cáo rất có thể thiếu đi tính thực tế và
không giúp nhà trường cải thiện chất lượng hiệu quả.
Vì những điểm còn bất cập đó, đến nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Thông tư 14/2022/TT-BGDĐT ngày 10/10/2022, có hiệu lực thi hành từ 25/11/2022, thay thế cho Thông tư 18/2013/TT-BGDĐT.
Vài bài học kinh nghiệm
Bài học 1: Tăng cường năng lực cho nhân lực thiết kế chính
sách, cơ chế và thực hiện kiểm định chất lượng, đảm bảo chất lượng nhà
trường là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Ở đó tiêu chuẩn năng lực của
kiểm định viên và cán bộ liên quan đến đảm bảo chất lượng cần được xây
dựng, việc bồi dưỡng cấp chứng chỉ kiểm định viên sẽ căn cứ vào đó.
Bài học 2: Việc xây dựng các tiêu chuẩn kiểm định chất lượng
rất cần đảm bảo tính linh hoạt, mềm dẻo để tránh tiêu chuẩn quá chặt
chẽ, sẽ dẫn đến mâu thuẫn giữa khuyến cáo cáo của cơ quan kiểm định chất
lượng và tự chủ của nhà trường, hệ quả là tạo ra thách thức với việc
nhà trường đổi mới sáng tạo trong bối cảnh thị trường lao động biến đổi
và khoa học công nghệ phát triển. Hệ quả kéo theo là hệ thống văn bản
thường xuyên thay đổi, nhất là xu hướng đào tạo liên ngành và xuyên
ngành như thời gian qua.
Bài học 3: Phát triển hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong
là yếu tố cốt lõi đối với công tác đảm bảo chất lượng giáo dục đại học
bền vững.
Bài học 4: Các trung tâm kiểm định cần được độc lập về tổ
chức, về hoạt động chuyên môn với cơ quan quản lý nhà nước và với cơ sở
giáo dục đại học. Nội hàm về tính độc lập cần được quy định rõ ràng hơn.
Bài học 5: Đảm bảo chất lượng giáo dục đại học trong bối
cảnh tự chủ giáo dục đại học sẽ giảm dần vai trò của cơ quan quản lý nhà
nước với việc mở ngành đào tạo mới để cấp phép. Vì thế, mỗi cơ sở giáo
dục đại học rất cần hoàn thiện quy trình nghiêm ngặt việc thẩm định
chương trình giáo dục cùng các điều kiện đảm bảo chất lượng khi mở ngành
đào tạo mới trên cơ sở tiêu chuẩn chương trình đào tạo chuẩn do Bộ Giáo
dục và Đào tạo ban hành theo quy định của Luật Giáo dục Đại học năm
2018.
Bài học 6: Cần xây dựng văn bản quy định công tác giám sát
các trung tâm kiểm định chất lượng trong và ngoài nước về điều kiện
thành lập đã đăng ký, về thực hiện các nhiệm vụ và kết quả cũng như tác
động của hoạt động kiểm định ở mỗi trung tâm. Điều này không chỉ là yêu
cầu minh bạch các hoạt động đảm bảo chất lượng, thúc đẩy cải thiện chất
lượng và đặc biệt góp phần làm tăng niềm tin vào giá trị văn bằng do cơ
sở Giáo dục và Đào tạo cấp cho người tốt nghiệp.
Bài học 7: Cần có chính sách ưu tiên về nguồn lực đầu tư cho những cơ sở giáo dục đại học
làm tốt công tác đảm bảo chất lượng bên trong và xử lý những cơ sở
không tuân thủ những quy định về tiêu chuẩn đảm bảo chất lượng. Một số
cơ sở giáo dục và đào tạo được tổ chức kiểm định nước ngoài không đăng
ký thành lập và hoạt động ở Việt Nam cấp giấy kiểm định kiểm định cần
được quản lý để có chính sách với những cơ sở đó.