GDVN-Việt Nam vẫn chưa có quy hoạch mạng lưới các tổ chức KĐCLGD dù một 
số tổ chức kiểm định đã được Bộ trưởng Bộ GD&ĐT cho phép thành lập 
và đi vào hoạt động.   Có thể nói, công tác đảm bảo chất lượng trong giáo dục đại học
 manh nha từ đầu năm 2003 đến nay gần 20 năm đã đi qua chặng đường khá 
dài với những thành tích nhất định trên các bình diện phát triển chính 
sách, xây dựng cơ chế (ban hành quy định ghi trong Luật Giáo dục, tiêu 
chuẩn kiểm định..), hình thành văn hóa chất lượng ở nhiều cơ sở giáo dục
 đại học với đội ngũ nhân sự làm công tác đảm bảo chất lượng tăng nhanh 
chóng. Ảnh minh họa: VNU   Về phương diện nội dung quản lý đảm bảo chất lượng với giáo dục đại 
học không phải duy nhất một cơ quan là Cục Quản lý chất lượng mà còn có 
sự tham gia của một số đơn vị khác theo chức năng như Thanh tra, Vụ Giáo
 dục đại học, Tổ chức cán bộ. Thông thường, Vụ Tổ chức cán bộ chủ trì 
bắt đầu từ việc thành lập cơ sở giáo dục đại học, đi vào mở ngành đào 
tạo và hoạt động (Vụ Giáo dục đại học) và trong quá trình hoạt động (Vụ 
Thanh tra). Như vậy cơ chế đảm bảo chất lượng giáo dục đại học hình 
thành theo các bước:  
 Thứ nhất: Trường phải đảm bảo chất lượng là các điều kiện 
ban đầu để thành lập, trong hồ sơ, phải đáp ứng các quy định của Bộ 
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về tên trường, mục đích thành lập, tổ chức
 bộ máy, kế hoạch xây dựng và phát triển, những ngành đào tạo tương lai 
và quy mô tuyển sinh, đội ngũ cán bộ giảng viên, tài chính, đất đai, và 
phải phù hợp với quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học do Thủ 
tướng quyết định...  
Trước khi chuyển hồ sơ thành lập trường lên Bộ Giáo dục và Đào tạo 
chủ trì làm đầu mối triển khai thẩm định thì Ủy ban nhân dân tỉnh phải 
tổ chức thẩm định hồ sơ thành lập trường theo quy định của Chính phủ tại
 Nghị định số 127/2018/NĐ-CP, quy định trách nhiệm quản lý nhà nước đối 
với giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục đại học, giáo dục 
thường xuyên: "tham gia thẩm định thực tế đề án thành lập cơ sở giáo dục
 đại học trên địa bàn; kiểm tra và xác nhận các điều kiện bảo đảm chất 
lượng đào tạo để Bộ Giáo dục và Đào tạo cho phép hoạt động giáo dục đối 
với các cơ sở giáo dục đại học trên địa bàn theo quy định".  
Đoàn thẩm tra thành lập trường gồm các Bộ: Giáo dục và Đào tạo, Nội 
vụ, Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, và đại diện Văn phòng Chính phủ. Cách
 tiếp cận đảm bảo chất lượng này hoàn toàn là cách tiếp cận dựa theo đầu
 vào (input-based) là bước ban đầu của quá trình đảm bảo chất lượng.  
Cách tiếp cận này mang tính hành chính, nặng về thủ tục, thiếu tính 
chuyên nghiệp mang đặc trưng giáo dục đại học, không có chuyên gia về 
đảm bảo chất lượng hay kiểm định tham gia, cán bộ thẩm định có thể thiếu
 liêm chính. Điều này dẫn đến hệ quả là có cơ sở giáo dục đại học được 
thành lập nhưng rất thiếu về cơ sở vật chất đất đai, diện tích phòng 
học, trang thiết bị và đặc biệt đội ngũ giảng viên.   
 Thứ hai: Khi trường đại học chưa được tự chủ trong việc mở 
ngành đào tạo thì sẽ được Vụ bậc học xem xét hồ sơ mở ngành theo quy 
định về các điều kiện đảm bảo chất lượng của ngành học định mở (new 
programs) nếu đáp ứng với quy định mở ngành đào tạo thì Vụ sẽ trình lãnh
 đạo Bộ cho phép mở ngành đào tạo mới. Trước đây, trường hợp với ngành Y
 - Dược thì cần có ý kiến thẩm định theo tiêu chuẩn cơ sở vật chất của 
Bộ Y tế. Hiện nay theo Thông tư 22/2017/TT-BGDĐT thì không cần có ý kiến
 của Bộ Y tế, Hiệu trưởng nhà trường chịu trách nhiệm về tính xác thực 
của hồ sơ. Và cũng đã có quy định hồ sơ mở ngành trước khi trình ra Bộ, 
thì cần có ý kiến của Sở Giáo dục và Đào tạo và ý kiến thẩm định của một
 cơ sở giáo dục đại học được Bộ chỉ định.   
Kiểm soát việc mở ngành đào tạo bởi Vụ bậc học và thực chất chỉ là 
một chuyên viên được giao theo dõi hoạt động của nhà trường vì thế thủ 
tục vẫn mang nặng tính hành chính, quan liêu. Hàng trăm ngành đào tạo 
thì hoàn toàn không có đủ chuyên viên với kiến thức và kinh nghiệm 
chuyên gia để thẩm định, góp ý hoàn thiện hồ sơ trình mở ngành đào tạo 
của trường theo yêu cầu đảm bảo chất lượng.  Sau khi được phép đào tạo ngành mới, Vụ bậc học (có thể) phối hợp với
 một vài Vụ trong Bộ đi kiểm tra quá trình tuyển sinh và đối chiếu hồ sơ
 đăng ký mở ngành đào tạo về các điều kiện đảm bảo chất lượng. Tuy 
nhiên, đây không phải là công việc thường xuyên của Vụ bậc học vì không 
đủ biên chế và chuyên môn để đi kiểm tra các điều kiện đảm bảo chất 
lượng. Việc chỉ định một cơ sở giáo dục đại học thẩm định theo cách tiếp
 cận (peer review) đã khiến thủ tục trở nên phức tạp, không độc lập, 
cạnh tranh thiếu minh bạch và thêm chi phí cho nhà trường.   
Điều đặc biệt là trong điều kiện mở ngành có ghi: "Đã đăng ký kiểm 
định chất lượng giáo dục đại học hoặc được kiểm định đạt tiêu chuẩn chất
 lượng giáo dục theo quy định hiện hành". Điều đó, gián tiếp thừa nhận 
ngành đào tạo mới muốn mở ra phải cần chuẩn bị kiểm định chất lượng nhà 
trường trước. Trong thực tế, khi xây dựng và thực hiện một chương trình 
mới thì những điều kiện của kiểm định chất lượng nhà trường được kiểm 
định trước đây có thể hoàn toàn không có sự tương quan đến ngành đào tạo
 mới.   
Mặt khác, sự phối hợp với Cục Quản lý chất lượng giáo dục hoàn toàn 
không có trong việc đi kiểm tra việc đào tạo. Công việc này vẫn mang 
nặng tính chất hành chính thời kỳ kế hoạch tập trung.  
 Thứ ba: Trong quá trình tuyển sinh và đào tạo, nếu xuất 
hiện những chuyện kiện cáo hoặc phàn nàn trước xã hội về chất lượng đào 
tạo đại học thì Thanh tra của Bộ sẽ thành lập đoàn thanh tra cũng sự 
tham gia của đại diện các Cục, vụ khác.   
Chính sách quản lý nhà nước trên bình diện đảm bảo chất lượng giáo 
dục đại học cần phải đề cập là lần đầu tiên Bộ Giáo dục và Đào tạo yêu 
cầu tất cả các trường đại học, cao đẳng, phải xây dựng và công bố chuẩn đầu ra
 (learning outcomes) của chương trình đào tạo. Bộ Giáo dục và Đào tạo 
cũng ban hành quy định tất cả các cơ sở giáo dục đại học, cao đẳng và 
trung cấp chuyên nghiệp phải thực hiện 3 công khai trong đó công khai 
điều kiện đảm bảo chất lượng để cho cơ quan quản lý nhà nước và xã hội 
giám sát. Có thể xem là cách tiếp cận về đảm bảo chất lượng với nhiều 
bên tham gia, chuyển từ tác nghiệp quản lý sang kiểm soát chất lượng.  
Quá trình đảm bảo chất lượng đang phổ biến là thực hiện việc kiểm 
định chất lượng với sự kết hợp đảm bảo chất lượng bên trong và đánh giá 
chất lượng bên ngoài bởi cơ sở giáo dục đại học và tổ chức kiểm định. 
Hình thức kiểm định gồm kiểm định cơ sở giáo dục đại học và kiểm định 
chương trình.  
Căn cứ theo Luật Giáo dục sửa đổi 2009, Chính phủ ban hành Nghị định 
số 31/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 
75/2006/NĐ-CP ngày 02 tháng 8 năm 2006 quy định và hướng dẫn rõ hơn như 
quy hoạch mạng lưới tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục; Nghị định 
cũng quy định: "Tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục được thành lập khi
 có đề án thành lập phù hợp với quy hoạch mạng lưới tổ chức kiểm định 
chất lượng giáo dục; có đội ngũ kiểm định viên kiểm định chất lượng giáo
 dục đạt tiêu chuẩn, đủ về số lượng bảo đảm thực hiện kiểm định chất 
lượng giáo dục". Tuy nhiên, cho đến nay Việt Nam vẫn chưa có quy 
hoạch mạng lưới các tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục nhưng một số 
tổ chức kiểm định đã được Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cho phép 
thành lập và đi vào hoạt động. 
 
Về chính sách đảm bảo chất lượng trong giáo dục và đào tạo cũng được 
nhấn mạnh tại Nghị quyết số 29/NQ-TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo 
dục và đào tạo năm 2013 rằng: "Hoàn thiện hệ thống kiểm định chất lượng 
giáo dục. Định kỳ kiểm định chất lượng các cơ sở giáo dục, đào tạo và 
các chương trình đào tạo; công khai kết quả kiểm định. Chú trọng kiểm 
tra, đánh giá, kiểm soát chất lượng giáo dục và đào tạo đối với các cơ 
sở ngoài công lập, các cơ sở có yếu tố nước ngoài". Nghị quyết cũng yêu 
cầu: "Chuẩn hóa các điều kiện bảo đảm chất lượng và quản lý quá trình 
đào tạo; chú trọng quản lý chất lượng đầu ra. Xây dựng hệ thống kiểm 
định độc lập về chất lượng giáo dục, đào tạo". Giờ học thực hành của sinh viên ngành y. Ảnh: Trung tâm Kiểm định chất lượng, Đại học Quốc gia Hà Nội     Như vậy việc xây dựng hệ thống kiểm định độc lập về chất lượng giáo 
dục và đào tạo là bước chuyển quan trọng tách hoạt động kiểm định ra 
khỏi công việc của cơ quan Bộ Giáo dục và Đào tạo. Bộ chỉ làm công tác 
quản lý nhà nước với công tác đảm bảo chất lượng và kiểm định theo luật 
định. Tuy nhiên, tính độc lập ở đây được hiểu không giống như thực tế về
 tính độc lập trong kiểm định của các tổ chức kiểm định trên thế giới, 
như tự xây dựng tiêu chuẩn kiểm định chất lượng cho riêng mình về cơ sở 
giáo dục và đào tạo hoặc chương trình, tiêu chuẩn kiểm định viên, tài 
chính cho hoạt động kiểm định... Nội dung của tính độc lập cần được xác 
định rõ hơn. Tại Hội thảo về Kiểm định chất lượng giáo dục đại học, do 
Hiệp hội Các trường đại học và cao đẳng Việt Nam tổ chức có sự tham gia 
của Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội đã xuất hiện các ý kiến tranh 
luận về tính độc lập trên 3 nội dung: tổ chức, tài chính, và chuyên 
môn...  
Luật không quy định trách nhiệm giải trình hoạt động của tổ chức kiểm
 định cũng như việc Bộ Giáo dục và Đào tạo giám sát các tổ chức kiểm 
định mà những điều này được quy định ở các văn bản dưới luật. Tuy nhiên,
 tại Điều lệ trường đại học do Thủ tướng ký ban hành năm 2014, trường 
đại học còn có trách nhiệm "... tham gia các hoạt động kiểm định chất 
lượng trong nước và quốc tế; tham gia giám sát hoạt động của các tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục;
 đảm bảo tính khách quan, minh bạch và công bằng trong hoạt động giáo 
dục và đào tạo". Cách thức giám sát cũng như các tiêu chí giám sát hoạt 
động chưa được khẳng định ở văn bản quy phạm pháp luật nào. Tuy nhiên, 
sau này, Nghị định số 99/2019/NĐ-CP đã bãi bỏ Quyết định số 70/QĐ-TTg về
 Điều lệ trường đại học.  
Trách nhiệm và quyền hạn của các tổ chức kiểm định được quy định chi 
tiết tại Nghị định số 99/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 về xây dựng cơ cấu 
tổ chức, bộ máy, bồi dưỡng, quản lý kiểm định viên, ban hành các văn bản
 nội bộ để tổ chức các hoạt động kiểm định; đánh giá và kiểm định cơ sở 
hoặc chương trình đào tạo đạt chất lượng kiểm định; công khai giấy phép 
hoạt động kiểm định chất lượng, quy chế tổ chức và hoạt động, danh sách 
hội đồng kiểm định, danh sách kiểm định viên, kết quả hoạt động kiểm 
định; tuân thủ các quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục, 
quy trình kiểm định chất lượng giáo dục; các nguyên tắc hoạt động, điều 
kiện và tiêu chuẩn của tổ chức, cá nhân hoạt động kiểm định chất lượng 
giáo dục; về giám sát, đánh giá tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục; 
báo cáo, cung cấp hồ sơ kiểm định bằng văn bản theo yêu cầu của cơ quan 
có thẩm quyền (Bộ Giáo dục và Đào tạo); báo cáo hàng năm về kết quả thực
 hiện kiểm định trong năm và kế hoạch cho năm tiếp theo.   
Nghị định này cũng không quy định trách nhiệm Bộ Giáo dục và Đào tạo 
về giám sát tổ chức kiểm định độc lập đối với Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tuy
 nhiên, rất cần có quy định trách nhiệm của Bộ Giáo dục và Đào tạo và 
các bên liên quan trong giám sát trách nhiệm trong tổ chức hoạt động của
 các tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục..  
Nghị định số 46/2017/NĐ-CP quy định về điều kiện đầu tư và hoạt động 
trong lĩnh vực giáo dục đã thể chế hóa chính sách đảm bảo chất lượng và 
kiểm định, tạo điều kiện hình thành một hệ thống các cơ sở kiểm định 
chất lượng. Nghị định này quy định điều kiện, thủ tục thành lập, điều 
kiện hoạt động, giải thể tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục công lập,
 cho phép thành lập tổ chức kiểm định tư thục trong nước. Đồng thời, 
cũng quy định điều kiện, thủ tục kiểm định tổ chức kiểm định nước ngoài 
hoạt động tại Việt Nam. Tuy nhiên, chưa có quy định nào chỉ ra quyền và 
trách nhiệm cơ sở giáo dục và đào tạo được kiểm định đạt chứng chỉ kiểm 
định do cơ sở kiểm định ngoài nước cấp, nhưng không đăng ký hoạt động 
tại Việt Nam. Bên cạnh đó, luật pháp cũng không quy định trách nhiệm của tổ chức 
kiểm định ngoài nước phải theo dõi (follow up) việc cơ sở giáo dục đại 
học thực hiện các khuyến cáo của đoàn đánh giá ngoài.  
Trước những vấn đề đặt ra là: cơ quan nào sẽ "kiểm định" các tổ chức 
kiểm định độc lập hay nói cách khác cơ quan quản lý nhà nước làm gì để 
có thể quản lý giám sát các hoạt động kiểm định, đảm bảo rằng các tổ 
chức kiểm định thực hiện đúng thẩm quyền, trách nhiệm mà luật pháp đã 
quy định, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã dự thảo Thông tư Quy định về việc 
giám sát, đánh giá tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục và đang lấy ý 
kiến công khai.  
Qua những vấn đề đã đề cập ở trên, về hệ thống đảm bảo chất lượng tại Việt Nam có thể nhận thấy như sau:   
Ưu điểm: Đã hình thành một hệ thống đảm bảo chất lượng và 
kiểm định chất lượng giáo dục đại học được hình thành trên 15 năm, đi 
vào hoạt động với chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm được quy định khá 
cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật. Tạo ra hành lang pháp lý 
quan trọng để các cơ sở giáo dục đại học, các tổ chức kiểm định chất 
lượng trong và ngoài nước triển khai các hoạt động đánh giá và kiểm định
 cũng như hội nhập quốc tế về công tác kiểm định chất lượng. Các văn bản
 pháp luật thường xuyên thay đổi phản ánh sự năng động trong thiết kế 
chính sách luật pháp.   
Hạn chế: Hạn chế lớn nhất của công tác quản lý hệ thống đảm bảo chất lượng và kiểm định chất lượng là vấn đề nhân sự
 (năng lực và phẩm chất của đội ngũ); các vấn đề về nhận thức vai trò, 
mục đích, ý nghĩa của công tác đảm bảo chất lượng bên trong, tính thụ 
động với những tiêu chuẩn cũng như những hạn chế về nguồn lực để tăng 
cường công tác đảm bảo chất lượng đã là rào cản lớn đối với công tác 
này.   
Những quy định của luật pháp tiếp tục phải được hoàn thiện để đảm bảo
 các nguyên tắc kiểm định chất lượng (độc lập, khách quan, trung thực) 
được tôn trọng theo quy định của luật và tăng lòng tin của xã hội vào 
kiểm định chất lượng. Những quy định nặng về thủ tục mang tính hành 
chính, thiếu tính chuyên môn, chuyên nghiệp cần lọc bớt.   
Đặc biệt là trách nhiệm giải trình của các tổ chức kiểm định chất 
lượng trong việc thành lập, hoạt động cũng như những kết quả kiểm định 
chất lượng và sự theo dõi các khuyến cáo của đoàn đánh giá ngoài cần 
được cơ quan quản lý nhà nước quản lý chặt chẽ.   
Cũng phải khắc phục những vấn đề hạn chế trong việc hình thành mạng 
lưới, sự hợp tác giữa các bên liên quan và ứng dụng công nghệ số trong 
công tác thu thập, xử lý thông tin theo Dữ liệu lớn (big data) thì bức 
tranh về chất lượng giáo dục đại học ở đầu ra sẽ rõ hơn.  |