GD&TĐ - GS.TS Nguyễn Hữu Đức (ĐHQG Hà Nội) đánh giá về KĐCLGD Việt
Nam và đưa gợi ý để hoạt động này được triển khai tốt hơn. NGND.GS.TS Nguyễn Hữu Đức Bài 1: Nhận diện kiểm định chất lượng giáo dục Việt NamQuản trị, quản lý, đánh giá chất lượng giáo dục ở nước ta đã được
quan tâm, có những bước đi đầu tiên vào những năm đầu của thiên niên kỷ
này, và thực sự được triển khai đồng bộ, mạnh mẽ chỉ mới gần 10 năm lại
đây, đặc biệt sau khi Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) cập nhật, ban hành
các Bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng cơ sở giáo dục ĐH (GDĐH) và đánh
giá chất lượng chương trình đào tạo (CTĐT).
Đây có thể coi là một trong ít các chính sách được triển khai nhanh chóng và hiệu quả nhất của ngành Giáo dục.
Tính đến hết tháng 2/2023, theo thống kê của Bộ GDĐT, cả nước đã có
261 cơ sở giáo dục (239 cơ sở GDĐH, 22 trường cao đẳng sư phạm) thực
hiện tự đánh giá chất lượng. Trong đó, có 185 cơ sở GDĐH và 11 trường
cao đẳng sư phạm được công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục; 1050
CTĐT đã hoàn thành tự đánh giá, trong đó có 690 CTĐT công nhận đạt tiêu
chuẩn chất lượng giáo dục. Trong số này, có một số cơ sở GDĐH đã có hơn
40% CTĐT được công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng.
Ngoài ra, nhiều cơ sở GDĐH cũng đã tiếp cận và thực hiện đánh giá
chất lượng theo các bộ tiêu chuẩn của một số tổ chức nước ngoài. Các bộ
tiêu chuẩn kiểm định chất lượng tập trung đánh giá các điều kiện tối
thiểu, đảm bảo vận hành có chất lượng của các cơ sở GDĐH và CTĐT, các
tiêu chí đánh giá từ việc xác định chiến lược phát triển và mục tiêu
giáo dục, xây dựng hệ thống đảm bảo chất lượng, quá trình triển khai đến
kết quả thực hiện nhiệm vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học và phục vụ cộng
đồng. Đồng thời, đó cũng là văn bản góp phần định hình các nội dung,
nhiệm vụ và quy trình triển khai các hoạt động trong các cơ sở GDĐH. Ảnh minh họa/Thế Đại Chuyển động tích cực Các “chuyển động” đáng kể của ĐH Việt Nam - tác động trực tiếp của hoạt
động kiểm định chất lượng giáo dục (KĐCLGD) trong những năm qua có thể
ghi nhận với các thay đổi tích cực sau: Thứ nhất: Hệ thống văn bản quản lý điều hành, hướng dẫn đã tương đối đầy đủ Những quy định về KĐCL GDĐH đã được đưa vào Luật của Quốc hội, Nghị
định của Chính phủ, Thông tư của Bộ GDĐT và hướng dẫn của Cục Quản lý
chất lượng.
Bên cạnh đó, các văn bản quy định về kiểm định viên, tổ chức KĐCLGD
đã tạo hành lang pháp lý quan trọng để các cơ sở GDĐH, các tổ chức
KĐCLGD trong, ngoài nước triển khai các hoạt động đánh giá và KĐCLGD,
đồng thời hội nhập quốc tế trong lĩnh vực KĐCLGD.
Căn cứ trên các văn bản quy định, các trung tâm KĐCLGD trong nước bao
gồm cả công lập và tư thục đã được thành lập, hoạt động bước đầu đi vào
nề nếp. Thứ hai: Giảng dạy ĐH bắt đầu có tính chuyên nghiệp Một thời gian dài, giảng viên ĐH rất yên tâm với việc có CTĐT, bài
giảng, giáo trình, phấn trắng và bảng đen, giảng dạy theo kinh nghiệm.
Chúng ta chậm được làm quen với khái niệm chuẩn đầu ra, dạy học dựa vào
chuẩn đầu ra và phải đạt được chuẩn đầu ra. Vậy nên tính chuyên nghiệp
và hiệu quả dạy học rất thấp. Giảng viên thường dạy những thứ mình biết.
Với tiếp cận đánh giá chất lượng vừa qua, nhất là đánh giá chất lượng
CTĐT, các cơ sở GDĐH, đặc biệt là các khoa, bộ môn đã triển khai tập
huấn, hướng dẫn và hầu hết giảng viên đã tham gia thực hiện xây dựng
chuẩn đầu ra cho CTĐT, các học phần gắn với nhu cầu của doanh nghiệp.
Mục tiêu, triết lý dạy học có định hướng rõ ràng hơn, dạy học có nghề
hơn. Đó là những yếu tố cơ bản nhưng rất quan trọng về tính chuyên
nghiệp trong GDĐH. Người học và nhà sử dụng lao động được hưởng lợi từ
những cải tiến này rất nhiều.
Thứ ba: Quản trị ĐH bắt đầu được quan tâm
Những năm đầu triển khai kiểm định chất lượng ở chu kỳ thứ nhất, rất
nhiều trường còn lúng túng với việc xác định tầm nhìn, sứ mạng và chiến
lược phát triển; lúng túng với việc quản trị mục tiêu và với cả việc vận
hành hệ thống quản trị khi có hội đồng trường.
Đến kỳ đánh giá chu kỳ hai hiện nay, số này có chiều hướng giảm dần.
Đa số các cơ sở GDĐH được kiểm định đã đầu tư vào việc xác định sứ mạng,
tầm nhìn và định hình rõ chiến lược phát triển, có các chỉ số thực hiện
cụ thể, vừa phù hợp với xu thế phát triển, yêu cầu của đất nước và
nguồn lực của đơn vị.
Ngoài các mô hình ĐH định hướng nghiên cứu, ứng dụng, nhiều cơ sở
GDĐH đã tiếp cận mô hình ĐH định hướng đổi mới sáng tạo, nêu cao tinh
thần khởi nghiệp, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, thực hiện chuyển đổi số,
từng bước đào tạo cá thể hoá và quan tâm đến các giá trị xã hội mới.
Các nguồn lực được bố trí khá hợp lý cho các lĩnh vực. GDĐH nước ta
đã phát triển toàn diện và hội nhập hơn. Việt Nam ngày càng có nhiều cơ
sở GDĐH có tên trên bản đồ ĐH thế giới. Ảnh minh họa/ITN Thứ tư: Hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong của các cơ sở GDĐH được xác lập
Hệ thống GDĐH Việt Nam bước đầu đã hình thành một hệ thống bảo đảm
chất lượng tương đối hoàn chỉnh với cả thành tố bảo đảm chất lượng bên
ngoài. Theo đó, đã thành lập 7 trung tâm KĐCLGD trong nước và công nhận
hoạt động cho 6 tổ chức KĐCLGD quốc tế. Về thành tố cơ bản của hệ thống
bảo đảm chất lượng bên trong, đã thành lập các đơn vị bảo đảm chất lượng
tại các cơ sở GDĐH.
Hai hệ thống này có mối quan hệ chặt chẽ và tương hỗ lẫn nhau. Chính
phủ cũng đã quan tâm đến phát triển hệ thống này. Năm 2022, Thủ tướng đã
phê duyệt Chương trình “Phát triển hệ thống bảo đảm và KĐCLGD đối với
GDĐH và cao đẳng sư phạm giai đoạn 2022 - 2030”.
Nhiều cơ sở GDĐH đã tuyên bố về chính sách chất lượng, đặc biệt chủ
động xây dựng cơ sở dữ liệu, thông tin đảm bảo chất lượng bên trong từ
hoạt động dạy học, chất lượng đội ngũ, cơ sở vật chất đến kết quả đầu ra
và đề xuất các hoạt động cải tiến nâng cao chất lượng.
Ngoài thông tin về tình hình tuyển sinh, thôi học và tỷ lệ tốt
nghiệp, tình hình việc làm của sinh viên thì kết quả nghiên cứu khoa học
và phục vụ cộng đồng được quan tâm nhiều hơn.
Đặc biệt, các cơ sở GDĐH cũng đã quan tâm nhiều đến việc khảo sát các
bên liên quan về mức độ hài lòng với các tất cả hoạt động.
Đó là những thông tin, con số biết nói, giúp các cơ sở GDĐH nhận diện
để cải tiến chất lượng, từng bước xây dựng và hình thành văn hóa chất
lượng của mình.
Nhiều cơ sở GDĐH không còn coi việc đối phó với KĐCLGD, coi giấy
chứng nhận KĐCLGD là đích đến, mà là việc đảm bảo chất lượng bên trong
và không ngừng phấn đấu để ngày càng tốt hơn sau KĐCLGD.
Thứ 5: Thông tin về chất lượng giáo dục bắt đầu được hình thành
Kết quả đánh giá chất lượng mặc dù chỉ mới phản ánh mức độ đạt được
các yêu cầu tiêu chuẩn kiểm định ở mức tối thiểu, nhưng là những thông
tin rất cơ bản đối với người học, nhà tuyển dụng lao động và các cấp
quản lý.
Các thông tin này được công khai trên cổng thông tin của Bộ GDĐT, của
các trung tâm KĐCLGD và của cơ sở GDĐH; thực hiện được ba công khai và
trách nhiệm xã hội của các cơ sở GDĐH, đồng thời tạo được sự yên tâm và
tin tưởng của các bên liên quan.
Ngoài các thông tin này, một số cơ sở GDĐH còn tham gia thực hiện một
số kênh đánh giá chất lượng khác như xếp hạng (THE, QS, Webometrics…)
và xếp hạng đối sánh (U-multirank, QS stars, UPM…). Đây là xu thế đo
lường chất lượng tích hợp hiện nay trên thế giới.
Các phương pháp đánh giá này hỗ trợ thêm cho các hoạt động KĐCLGD, có
thể đối sánh, đánh giá thêm được mức độ xuất sắc của cơ sở GDĐH và
CTĐT, đồng thời bổ sung một số tiêu chí, chỉ số đánh giá mới, phản ánh
xu thế chuyển đổi của GDĐH, góp phần nhận diện thương hiệu. NGND.GS.TS Nguyễn Hữu Đức Các thách thức
Thứ nhất: Cơ chế và chính sách về KĐCLGD vẫn chưa hoàn thiện
Bên cạnh hệ thống văn bản quản lý điều hành và hướng dẫn đã nêu trên
thì cơ chế và những chính sách về khen thưởng hay xử phạt sau KĐCLGD vẫn
chưa đủ mạnh.
Việc KĐCLGD là bắt buộc nhằm không ngừng nâng cao chất lượng và giải
trình với các bên liên quan về thực trạng chất lượng đào tạo của cơ sở
GDĐH.
Lợi ích của việc thực hiện KĐCLGD đã hiện hữu, nhưng các chế tài cụ
thể đối với các cơ sở GDĐH chưa thực hiện công tác KĐCLGD theo kế hoạch
của cơ quan có thẩm quyền hay không đạt chuẩn chất lượng chưa được quy
định rõ.
Thứ hai: Năng lực xây dựng, đánh giá mức độ đạt chuẩn đầu ra của CTĐT còn yếu
Mặc dù đã có nhiều nỗ lực, nhưng kết quả KĐCLGD hiện nay cho thấy,
trong chu kỳ đánh giá thứ nhất, việc xây dựng chuẩn đầu ra mới chỉ có
hơn 30% CTĐT đạt yêu cầu.
Ngoài khả năng áp dụng thang nhận thức Bloom, việc áp dụng khung
trình độ quốc gia trong thời đại số và kỷ nguyên đổi mới sáng tạo còn
thách thức lớn.
Việc đánh giá mức độ đạt chuẩn đầu ra cũng chưa được quan tâm nhiều
kể cả hai phía: cơ sở GDĐH và các đoàn chuyên gia đánh giá ngoài.
Vậy nên, bài toán đo lường mức độ đạt chuẩn đầu ra của người học khi tốt nghiệp vẫn còn đang để ngỏ.
Thứ ba: Quản trị ĐH còn phiến diện
Nhiều cơ sở GDĐH mới chỉ dừng lại việc xác định tầm nhìn và sứ mạng
như là việc mô tả và liệt kê lại chức năng, nhiệm vụ của mình. Hơn thế
nữa, quan điểm phát triển của một số cơ sở GDĐH cũng còn phiến diện do
cách hiểu chưa đầy đủ về các khái niệm ĐH ứng dụng và ĐH nghiên cứu.
Vì thế cách thiết kế chiến lược, tổ chức và bố trí nguồn lực còn bất
hợp lý; tầm nhìn được xây dựng cũng còn chung chung nên khó khăn trong
việc xác định các chỉ số thực hiện chính.
Tự chủ là cơ hội để các cơ sở GDĐH phát huy tự chủ học thuật của
mình, nhưng những năm gần đây chỉ có chỉ số tuyển sinh được tăng cường,
còn các chỉ số nghiên cứu, đổi mới sáng tạo và phục vụ cộng đồng hầu như
được cải thiện rất ít.
Thứ tư: Khả năng đối sánh hạn chế
Đối sánh, so chuẩn là một trong những công cụ hiệu quả của đánh giá
chất lượng, đặc biệt là đảm bảo chất lượng bên trong, phải được thực
hiện thường xuyên, trước, trong và sau KĐCLGD.
Tuy nhiên, gần như hầu hết các cơ sở GDĐH và CTĐT đều chưa đạt đối
với các tiêu chí có liên quan đến yêu cầu đối sánh. Mặc dù thế giới đã
phẳng, thông tin rất dễ tìm kiếm, thậm chí cũng đã có một số bảng xếp
hạng đối sánh đã xác lập các tiêu chuẩn, chỉ báo, chỉ số rất chi tiết,
nhưng việc tham khảo đang rất yếu, chưa biết chọn đối tác, mô hình, chỉ
số thực hiện chính để đối sánh. Vậy nên tình trạng làm chiến lược theo
kiểu “bốc thuốc bắc” vẫn còn.
Về phía các chuyên gia kiểm định cũng vậy, nếu năng lực đối sánh hạn
chế thì khả năng đánh giá và khuyến nghị cải tiến chất lượng cho CSGD
cũng rất bất cập.
Thứ năm: Thông tin về chất lượng giáo dục chưa tường minh
Theo tiếp cận đánh giá chất lượng tối thiểu và hai mức (đạt và không
đạt) như hiện nay, khả năng phân biệt chất lượng (và mức độ xuất sắc)
của các cơ sở GDĐH sau kiểm định ít khả thi.
Hơn thế nữa, các bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục hiện tại
được sử dụng đang theo tiếp cận quy trình và hệ thống văn bản, chính
sách, chưa quan tâm nhiều đến chỉ số định lượng và kết quả đầu ra.
Trên thực tế, tiêu chí KĐCLGD đối với cơ sở GDĐH đã quan tâm đầy đủ
cả 4 nhóm tiêu chuẩn về đảm bảo chất lượng về chiến lược, đảm bảo chất
lượng về hệ thống, đảm bảo chất lượng về thực hiện chức năng và kết quả
hoạt động. Tiêu chí KĐCLGD CTĐT đã quan tâm đến mục tiêu và chuẩn đầu
ra, hoạt động dạy học, nguồn lực thực hiện, kết quả đầu ra. Nhưng nói
chung quá trình kiểm định hiện nay đang theo tiếp cận của Mạng lưới Đảm
bảo chất lượng các trường ĐH ASEAN (AUN-QA), còn tập trung ở các yếu tố
đầu vào, quá trình mà ít đo lường kết quả đầu ra của quá trình giáo dục. Ảnh minh họa/ITN Nguyên nhân
Thứ nhất: Các quy định chưa được tích hợp và cập nhật
Mặc dù KĐCLGD đang tiến hành đánh giá các điều kiện tối thiểu, nhưng
các tiêu chuẩn ấy đang nằm phân tán trong nhiều văn bản và chậm được cập
nhật, từ quy định tỉ lệ giảng viên/người học, đến yêu cầu về thư viện,
số lượng giảng viên có trình độ tiến sĩ đối với từng CTĐT… Các tiêu
chuẩn này lại được áp dụng qua các lăng kính ít nhiều khác nhau của các
tổ chức KĐCLGD, các đoàn chuyên gia đánh giá nên cũng tạo ra một số khác
biệt.
Bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng phải như một cẩm nang, trong đó có
quy định cả quản trị ĐH, CTĐT, giảng viên, cơ sở vật chất, nghiên cứu
khoa học và phục vụ cộng đồng, cho phép đánh giá năng lực thực, kết quả
thực chứ không chỉ đánh giá như ISO, quy trình, chính sách.
Thứ hai: Năng lực tư vấn đảm bảo chất lượng chưa đạt ngưỡng
Việc học tập và tiếp thu các mô hình ĐH, xây dựng bộ tiêu chí đánh
giá, phương pháp đánh giá cũng còn mới ở giai đoạn đầu. Đội ngũ chuyên
gia tập huấn, hướng dẫn công tác đảm bảo chất lượng còn ít và mới, mặc
dù rất nhiệt tình, có trách nhiệm nhưng cũng mới chỉ đủ sức quan tâm đến
việc hướng dẫn xây dựng mô hình đảm bảo chất lượng bên trong và chuẩn
bị báo cáo tự đánh giá.
Việc thực thi xây dựng và đánh giá mức độ đạt chuẩn đầu ra và quản
trị ĐH vẫn còn là thách thức lớn, chưa đạt ngưỡng, dẫn đến sản phẩm đảm
bảo chất lượng vẫn còn ở giai đoạn trung gian, nhiều khi còn hình thức.
Một số tiêu chuẩn, tiêu chí vẫn đang được hiểu khác nhau, chưa có thực
tiễn.
Thứ ba: Thông tin đối sánh nghèo nàn
Trong thời đại thông tin như hiện nay, nếu chú ý tìm kiếm thông tin
đối sánh, so chuẩn chất lượng giáo dục cũng không phải là việc khó, tuy
nhiên các cơ sở GDĐH chưa thực sự quan tâm, đồng thời chưa được hỗ trợ
từ các trung tâm KĐCLGD và cơ quan quản lý nhà nước. Thiếu cơ sở dữ liệu
đối sánh, nhiều hoạt động không có định hướng, chưa có mốc chuẩn tham
chiếu.
Đó là chưa kể đến việc có được cơ sở dữ liệu, thông tin đối sánh sẽ
giúp các cơ sở GDĐH tiếp cận các trường hợp thực hành tốt, các hình mẫu
để cải tiến. Hệ thống thông tin đảm bảo chất lượng chưa có thông tin về
hoạt động của toàn bộ hệ thống, chưa đảm bảo hệ thống được vận hành
thông suốt, chưa thông báo kịp thời những trục trặc có thể xảy ra để có
phương án khắc phục.
Thứ tư: Bác sỹ đo lường chất lượng giáo dục chưa cao tay
Các chuyên gia đánh giá ngoài hiện nay chủ yếu là các giảng viên, các
nhà quản lý giáo dục có kinh nghiệm, trưởng thành từ hệ thống ĐH nước
nhà. Mặc dù đã được tham gia các khoá huấn luyện và sát hạch kiểm định
viên, nhưng nội dung huấn luyện cũng chưa toàn diện lắm.
Nhiều chuyên gia chưa có khả năng phát hiện ra các “lỗi” của hệ
thống. Nhiều đoàn chuyên gia đánh giá cơ sở giáo dục có thể phát hiện
được đến hàng trăm lỗi kỹ thuật, nhưng để có thể tư vấn để cơ sở GDĐH
phát triển hiệu quả thì cũng còn nhiều thách thức.
Trong lúc các chuyên gia luôn yêu cầu các cơ sở GDĐH phải đối sánh,
thì trong hành trang của các chuyên gia thông tin đối sánh cũng rất
nghèo nàn. Do đó khả năng các chuyên gia nhận xét và mang đến cho các cơ
sở GDĐH các trường hợp thực hành tốt, các tư vấn khả thi, có giá trị
cũng chưa nhiều. |